Cải vận theo Can Chi căn bản, ngũ hành nạp âm và can tàng ẩn trong chi

Chúng ta thường quen với năm sinh gồm hai chữ cái, ví dụ: Canh Tuất, Bính Thìn, Tân Dậu… Kỳ thực, đây là một tổ hợp gồm hai thành phần, chữ đứng trước gọi là Can, đại lượng của trời trong ngũ hành biến đổi nên còn có tên là Thiên Can, chữ đứng sau gọi là Chi, đại lượng của đất trong tuần hoàn sinh diệt nên còn có tên là Địa Chi. Ví như người sinh năm Canh Tuất thì chữ Canh là Can, chữ Tuất là Chi. Người sinh năm Nhâm Dần thì chữ Can là Nhâm, Dần là Chi.

Thiên Can 

Có tất cả mười Thiên Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Thập Can này lại chia thành âm dương và ngũ hành: Mộc gồm Giáp và Ất, trong đó Giáp là dương mộc, Ất là âm mộc. Hỏa gồm Bính và Đinh, trong đó Bính là dương hỏa, Đinh là âm hỏa. Thổ gồm Mậu và Kỷ, trong đó Mậu là dương thổ, Kỷ là âm thổ. Kim gồm Canh và Tân, trong đó Canh là dương kim, Tân là âm kim. Thủy gồm Nhâm và Quý, trong đó, Nhâm là dương thủy, Quý là âm thủy.

Địa Chi

Địa Chi có mười hai chi gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Thập nhị Chi này lại chia thành âm dương và ngũ hành: Mộc gồm Dần và Mão, trong đó Dần là dương mộc, Mão là âm mộc. Hỏa gồm Tỵ và Ngọ, trong đó Ngọ là dương hỏa, Tỵ là âm hỏa. Thổ gồm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, trong đó Thìn và Tuất là dương thổ, Sửu và Mùi là âm thổ. Kim gồm Thân và Dậu, trong đó Thân là dương kim, Dậu là âm kim. Thủy gồm Hợi và Tý, trong đó Tý là dương thủy, Hợi là âm thủy.

Nếu bạn còn chưa nắm rõ kiến thức căn bản, hãy dùng lại một chút, xem chương trình căn bản tại video dưới rồi tiếp tục đọc bài nhé:

Nạp âm

Khi đứng riêng rẽ, mỗi Thiên Can và Địa Chi có một ngũ hành khác nhau nhưng khi ghép đôi thì ngũ hành biến hóa, gọi là nạp âm, mà chúng ta quen gọi là mệnh. Ví dụ: Canh là kim, Tuất là thổ, khi ghép đôi Canh Tuất thì ngũ hành biến thành kim (thoa xuyến kim). Bính là hỏa, Thìn là Thổ, khi ghép đôi Bính Thìn thì ngũ hành biến thành thổ (sa trung thổ)… Nguyên tắc ghép đôi là Can dương ghép với Chi dương, Can âm ghép với Chi âm mà không có âm dương lẫn lộn. Ví dụ: Tý là dương chi thì chỉ có thể ghép với dương Can là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm tạo thành Giáp Tý, Bính Tý, Mậu Tý, Canh Tý, Nhâm Tý mà không thể có Ất Tý, Đinh Tý, Kỷ Tý, Tân Tý, Nhâm Tý được.

Nạp âm bắt nguồn từ nhạc cổ Trung Quốc. Nhạc này có 12 luật, gồm: Hoàng Chung, Đại Lữ, Thái Thốc, Giáp Chung, Cô Tẩy, Trọng Lữ, Nhuy Tân, Lâm Chung, Di Tắc, Nam Lữ, Vô Xạ, Ứng Chung. Trong mỗi luật nhạc đều có 5 âm điệu là Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ. Mười hai luật sẽ có tổng thể 60 âm. Các nhà phong thủy và nhân tướng học đã dẫn nhập ngũ hành vào 5 âm điệu này, gọi là “nạp âm”: Thổ ứng với âm Cung, Kim ứng với âm Thương, Mộc ứng với âm Giốc, Hỏa ứng với âm Chủy, Thủy ứng với âm Vũ. Đồng thời, đem 60 hoa giáp hòa vào 60 thang âm, trở thành một bản hòa âm lục thập hoa giáp.

Lục thập hoa

Lục thập hoa giáp hình thành từ cách ghép Can với Chi. Mười Can ghép với mười hai Chi, bội số chung nhỏ nhất là sáu mươi, tức là có sáu mươi cách ghép đôi, bắt đầu từ Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần… cho đến Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi là hết một vòng, gọi là lục thập hoa giáp. Hết một vòng thì quay lại từ đầu. Ví dụ năm nay là Tân Sửu thì trước đây 60 năm cũng là Tân Sửu, trước nữa 120 năm cũng là Tân Sửu, sau đây 60 năm, 120 năm, 360 năm cũng là Tân Sửu. Mỗi hoa giáp như vậy tạo ra một hành mới khi kết hợp Can và Chi, mà chúng ta quen gọi là mệnh kim, mệnh thủy, mệnh hỏa, mệnh mộc, mệnh thổ.

Xét ngũ hành của một người

Khi xét ngũ hành của một người, nếu chỉ dùng mệnh của năm sinh thì nhất định là khiếm khuyết. Nó giống như khám một bệnh nhân qua đặc điểm bên ngoài, tức là khám lâm sàng. Nếu chúng ta có thể chụp X-quang, chụp cắt lớp thì hẳn là sáng tỏ hơn nhiều thứ bên trong. Đó chính là lúc ta dùng cả năm, tháng, ngày, giờ, sinh mà phân tích vậy. Một trong những bí quyết chụp X-quang ngũ hành của một người là sử dụng phép dò tìm can tàng ẩn trong chi. Nếu dùng sơ khai thì đối chiếu theo bảng dưới đây, nếu dùng chi li thì phải cân lượng ngũ hành tàng ẩn mới đắc dụng.

Theo đó, Tý tàng chứa Quý. Sửu tàng chứa Kỷ, Tân, Quý. Dần chứa Giáp, Bính, Mậu. Mão chứa Ất. Thìn chứa Mậu, Ất, Quý. Tỵ chứa Bính, Canh, Mậu. Ngọ chứa Đinh, Kỷ. Mùi chứa Kỷ, Ất, Đinh. Thân chứa Canh, Nhâm, Mậu. Dậu chứa Tân. Tuất chứa Mậu, Đinh, Tân. Hợi chứa Nhâm, Giáp. Đầu tiên cần phải phân tích can tàng ẩn trong chi. Sau đó quy đồng mẫu số về thuần can rồi cân đối ngũ hành. Ngũ hành giống như năm bánh xe chuyên chở cuộc đời, thiếu một bánh thì cỗ xe khó lái, đủ năm bánh nhưng bánh căng bánh xịt thì đi cũng gập ghềnh. Vì thế, một trong những phép cải vận là lắp đủ bánh xe, bơm đều các bánh.

Phong thủy Nguyễn Hoàng

Giảng sư – Giảng dạy phong thủy, dịch lý, bát tự

Làm thế nào để biết bạn đang thiếu gì và cần bổ sung ra sao mời bạn để lại chính xác ngày tháng năm giờ sinh và ghi rõ âm lịch hay dương lịch tôi sẽ hỗ trợ:


Gửi câu hỏi

Chuyên gia Phong thủy Nguyễn Hoàng là một trong những thầy dạy phong thủy tốt nhất Việt Nam, được biết đến như một Giảng sư đặc biệt, có khả năng biến những thuật ngữ phức tạp của cổ thư thành những khái niệm đơn giản trong đời sống. Chính vì vậy, chương trình “Phổ cập phong thủy vì cộng đồng” do Thầy khởi xướng đã được đón nhận rộng rãi thông qua các bài giảng online, các buổi tọa đàm trực tiếp và trên internet. Thầy là người tiên phong và có nhiều khóa học online nhất Việt Nam trên các nền tảng đào tạo trực tuyến về phong thủy. Vì vậy hàng vạn người học phong thủy, dịch lý, bát tự được thầy hướng dẫn từ cơ bản đến nâng cao, ai chưa biết gì cũng có thể học được, đã trưởng thành và đóng góp cho cộng đồng nhiều giá trị ý nghĩa.

Đăng ký kênh Youtube Phong Thủy Nguyễn Hoàng Để theo dõi các video mới nhất

2 thoughts on “Cải vận theo Can Chi căn bản, ngũ hành nạp âm và can tàng ẩn trong chi

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *