Luận về Nhâm Tý (1972), Quý Sửu (1973): Tang Thạch Mộc mặc trì liễu ngạn đung đưa, song ngư nguyệt chiếu cũng thủy vừa xuân lâm

Thổ vốn nằm ở trung tâm nhưng phân phối đều trong bốn cõi. Phàm là tứ khí Kim, Thủy, Mộc, Hỏa sinh diệt tuần hoàn tất thảy phải lấy Thổ làm trung gian, làm điểm tựa để mà sinh mà diệt. Thổ điều hòa âm dương, Thổ gồm Mậu và Kỷ. Mậu ở trên trời là sương, xuống dưới đất là núi, nên là dương Thổ. Mậu vốn không có nguyên khí, sống nhờ Hỏa sinh. Kỷ là hơi từ đầm bốc lên, tạo thành mây, là nguyên khí của trời, là chân Thổ của đất.
Mậu như ánh sáng khi mặt trời sắp tắt, đẹp đẽ nhưng thiếu nguồn cơn. Nếu một người có trụ ngày thuộc Mậu mà các trụ khác có Thủy thì ráng chiều gặp nước, soi bóng long lanh, tạo ra kỳ quan rực rỡ. Nếu trụ năm trụ tháng gặp Quý thì như cầu vồng sau mưa, thật là thiên tượng. Những người có cách cục này sớm muộn cũng phú quý vinh hoa.
Mậu được Hỏa của Tỵ tôi rèn thành đồ hữu dụng, cứng rắn, kêu thanh nên người tuổi Mậu thường được lộc từ người tuổi Tỵ. Dần ở núi Cấn là khởi sinh của Bính, Bính là dương Hỏa thích hợp để sinh cho dương Thổ của Mậu. Dậu là đất Kim khi đến đây thì Kim vượng Thổ suy nên Mậu bị trộm mất nguyên khí. Vì thế, Mậu sinh ở Dần mà tử ở Dậu, gọi là Thổ hư ắt sụt. Người tuổi Mậu nên kết hợp làm ăn với người Tỵ, Sửu, Mùi nhất định sẽ được tương thuận.
Kỷ Thổ sống ở Dậu Đoài, tượng là đầm. Giáp Ất tương giao thành Thổ, khí đi lên thành mây, gặp sấm thì mưa xuống tưới nhuần cho đất. Người có can ngày là Kỷ Thổ, thích nhất là gặp Dậu ở địa chi, gặp Hợi thì Ất Mộc là mây gió đi lên, tức là nhiễu loạn. Kỷ là nguyên khí của trời, là chân Thổ của đất. Khí thanh đi lên, xung hòa khí của trời đất, khí trọc đi xuống, vạn vật sinh sôi, nên gọi nó là Thổ âm.
Kỷ thích được âm Hỏa của Đinh mà không ưa dương Hỏa của Bính. Đinh Hỏa vốn nằm trong Ngọ có thể sinh cho nhưng Ất Mộc ở đây lại trộm đào nguyên khí của Thổ, thành ra phải đến nơi Dậu thì Hỏa Đinh mới vượng, Kỷ Thổ mới có đất mà sinh. Khi đến Dần là nôi của Bính, Kỷ bị nung đốt làm cho biến đổi. Vì vậy, Kỷ sinh ở Dậu mà tử ở Dần, Hỏa nóng thì Thổ nứt. Người tuổi Kỷ khi cộng sự với Ngọ, Tý, Thân sẽ được nhiều cát lợi.

Ngọ là giữa hạ, ở vị trí chính Nam, ngũ hành thuộc Hỏa, đất ở đây có màu đỏ vàng nên Ngọ là hỏa phong đài. Người sinh năm Ngọ mà Thìn ở trụ giờ thì xuất hiện chân long, được phàm mã ẩn, gọi là Mã đại long câu, thực là tốt đẹp. Mã gặp Dần Tuất thì như ngựa đóng vó mới, sẽ thêm sức tung hoành nhưng nếu lạm dùng sai thời thì tổn hao sinh lực. Người tuổi Ngọ làm lợi cho Bính, Kỷ, Tân nên những kẻ này khi tương giao thì thường được Ngọ tương trợ. Người tuổi Ngọ sinh tháng sáu, suốt đời lao lực, gian khổ. Sinh ngày Sửu, dễ thành công ít khó khăn, có quyền lực, khi gặp khó khăn thì nản lòng thối chí. Sinh giờ Tỵ, hai hỏa tỉ hòa, gia đạo êm ấm, giầu có dư dả, trường thọ. Sinh ngày Đinh Sửu giờ Ất Tỵ, sinh vào mùa xuân thì sung túc. Sinh vào mùa hạ thì cô độc. Sinh vào mùa thu thì cát lợi. Sinh vào mùa đông thì hiển đạt.
Mùi là cuối hạ, lúc này khí âm tăng lên, thế Hỏa yếu dần. Trong Mùi có Ất Mộc, có Đinh Hỏa, Ất Mộc khắc Mùi Thổ, là âm khắc âm, chính là Thiên Quan; Đinh Hỏa sinh ở Mùi, là âm sinh âm, chính là Thiên Ấn, nhưng trong Mùi không chứa tài, nếu không có Hợi Mão đến tương hợp với Mùi, hình thể của Mùi Thổ khó có thay đổi chỉ có thể là Hỏa Thổ thông thường; nếu không có Sửu đến xung nó, Tuất đến hình nó, thì mộ khố không mở ra được, Quan Ấn chôn trong Mùi cũng không ra được. Nếu trong trụ không có Hỏa, thì sợ hành vận Kim Thủy, hai trụ ngày giờ có nhiều khí hàn lạnh, nên thích đất Bính Đinh. Nhưng thần sát hỷ kỵ này cần phải làm rõ, không được sai sót. Mặt khác, Mùi là mộ khố của Mộc, giống như cây hoa trong bốn bức tường, đồng thời mọc um tùm thành bụi, nên gọi là hoa viên. Người sinh năm Mùi gặp giờ Mậu Tuất, hai can không hỗn tạp, được gọi là cách song phi vô cùng cách quý.

Người tuổi Mùi sinh tháng sáu, tài năng hơn người, đức độ cao thượng, gia vận êm ấm, cuộc đời sung sướng. Sinh ngày Ngọ, nhiều thuận lợi, vui mừng bình an, sung sướng. Sinh giờ Tỵ, hỏa tỵ sinh thổ mùi, thiên mã tại mệnh, nay đây mai đó. Sinh ngày Nhâm Ngọ giờ Ất Tỵ, sinh vào tháng Thìn hoặc tháng Tuất, mệnh quý. Sinh vào tháng Hợi, hành vận Kim, làm quan cao. Người tuổi Mùi làm lợi cho tuổi Giáp, Mậu, Canh khi làm ăn sẽ được tuổi Mùi tương trợ.
Người sinh năm Mậu Ngọ (1978) và Kỷ Mùi (1979) mạng Thiên Thượng Hỏa chính là lửa mặt trời, khi gặp Mộc phải có phong, có thủy hỗ trợ mới tốt. Ngọ gặp nhiều Mộc cũng được, Mùi gặp ba bốn Mộc trở nên thì cả đời lao khổ. Đối với mệnh Mộc, Thiên Thượng Hỏa gặp Đại Lâm Mộc, Tùng Bách Mộc, Thạch Lựu Mộc thì hiển quý vì Đại Lâm Mộc có Thìn Tỵ nổi lên, Thạch Lựu Mộc có Mão Dậu chảy tới.

Đối với mệnh Kim: Thoa Xuyến Kim có Tuất Hợi làm Thiên Môn để Hỏa đi vào từ đó; Kim Bạc Kim có Dần Mão có thể trợ sinh cho Hỏa, nên Thiên Thượng Hỏa gặp hai Kim này thì cát; Hỏa này chiếu sáng Kiếm Phong Kim, có thể giúp nhật nguyệt thêm sáng, thiếu niên đỗ đạt; các Kim khác không nên gặp, gặp thì hung

Xem thêm: Phân tích lá số trọn đời

Đối với mệnh Thủy: Thiên Thượng Hỏa mà Mậu Ngọ gặp Giản Hạ Thủy của Đinh Sửu, Kỷ Mùi gặp Bính Tý, thì âm dương phú quý; nếu trong mệnh lại có Mộc sinh dưỡng, thì phúc lộc song toàn. Đại Khê Thủy có Ất Mão; Tỉnh Tuyền Thủy có Kỷ Dậu; Mão Dậu là cửa để Hỏa ra vào, Thiên Thượng Hỏa gặp hai Thủy đó rất cát lợi; Thiên Hà Thủy Giáp Ngọ gặp Đinh Mùi cũng là hay ho, Mậu Ngọ gặp Bính Ngọ thì không tốt.

Đối với mệnh Hỏa: Thiên Thượng Hỏa thích Phù Đăng Hỏa, nhưng không được lẫn lộn với Hỏa khác, nếu không sẽ quá khô; Hỏa Ngọ này sợ gặp Bính Dần của Lư Trung Hỏa, vì Ngọ là Hỏa cương; Bính Dần là nơi Hỏa than trong lò sinh; Ngọ gặp Bính Dần, nếu không có Thủy sạch cứu tế thì phạm tội thân vong, Ngọ gặp Đinh Mão của Lư Trung Hỏa tốt hơn một chút.

Đối với mệnh Thổ: Thiên Thượng Hỏa thích gặp Sa Trung Thổ, Lộ Bàng Thổ, Ốc Thành Thổ, nếu có Kim Mộc hỗ trợ càng cát lợi. Khéo chọn cách cục nhật nguyệt phân tú, nếu Mậu Ngọ gặp Mão, Kỷ Mùi gặp Dậu thì tốt, trong đó lấy Ất Mão, Tân Mão làm thức chính, Kỷ Mão, Đinh Mão làm thức phụ; Dậu lấy Ất Dậu Quý Dậu làm thức chính, Kỷ Dậu, Đinh Dậu làm thức phụ.

Ngoài ra còn có cách cục Nhật xuất phù tang, Nhật luân đương biểu, Nguyệt sinh luân hải, Nhật chiếu hàn đàm, Nguyệt quế phân phương…; trong các cách cục hung nếu Hỏa này gặp Thủy nhiều tràn lan, Mậu Ngọ khắc bị thương, là Thái Dương tổn minh; nếu gặp Thổ nhiều chôn ép, Kỷ Mùi bị thương, là Thái âm bạc thực.

Phong thủy Nguyễn Hoàng

Bài viết nhiều người đọc


Luận về người sinh năm Giáp Tý (1984) và Ất Sửu (1985): Hải trung kim như nhóm máu O chỉ cho không nhận.


Luận về tuổi Nhâm Tuất (1982), Quý Hợi (1983): Đại Hải Thủy càn khôn đều chứa, nhật nguyệt chiếu soi, anh hùng và gian hùng đều từ đây cả


Tuyển sinh lớp Phong thủy Nhà ở – Mộ phần tháng 8

Để hiểu rõ hơn về bài viết, mời bạn đọc tìm hiểu ngay: Lá số tử vi là gì?

Radio Phong thủy và đời sống | Số 2 | Liệu chúng ta có thể thay đổi được số phận?

Chuyên gia Phong thủy Nguyễn Hoàng là một trong những thầy dạy phong thủy tốt nhất Việt Nam, được biết đến như một Giảng sư đặc biệt, có khả năng biến những thuật ngữ phức tạp của cổ thư thành những khái niệm đơn giản trong đời sống. Chính vì vậy, chương trình “Phổ cập phong thủy vì cộng đồng” do Thầy khởi xướng đã được đón nhận rộng rãi thông qua các bài giảng online, các buổi tọa đàm trực tiếp và trên internet. Thầy là người tiên phong và có nhiều khóa học online nhất Việt Nam trên các nền tảng đào tạo trực tuyến về phong thủy. Vì vậy hàng vạn người học phong thủy, dịch lý, bát tự được thầy hướng dẫn từ cơ bản đến nâng cao, ai chưa biết gì cũng có thể học được, đã trưởng thành và đóng góp cho cộng đồng nhiều giá trị ý nghĩa.

Đăng ký kênh Youtube Phong Thủy Nguyễn Hoàng Để theo dõi các video mới nhất

2 thoughts on “Luận về Nhâm Tý (1972), Quý Sửu (1973): Tang Thạch Mộc mặc trì liễu ngạn đung đưa, song ngư nguyệt chiếu cũng thủy vừa xuân lâm

  1. Pingback: Tử vi thứ Tư ngày 22/12/2021 (dương lịch) - Phong thủy Nguyễn Hoàng

  2. Pingback: Tử vi thứ Năm ngày 23/12/2021 (dương lịch) - Phong thủy Nguyễn Hoàng

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *